PPDH BÀN TAY NẶN BỘT
1. Lịch sử của phương pháp “Bàn tay nặn bột” và hành động quốc tế của phương pháp này.
- BTNB được sáng lập vào năm 1995 bởi Giáo sư Georges Charpak (đạt giải Nobel Vật lý năm1992).
- Năm 1998, Viện hàn lâm khoa học Pháp soạn thảo và công bố 10 nguyên tắc của BTNB, được coi là hiến chương của phương pháp dạy học tích cực này.
- Năm 2001, được sự bảo trợ của Viện hàn lâm khoa học Pháp, một mạng lưới các chuyên gia nghiên cứu về BTNB được thành lập với mục đích trao đổi kinh nghiệm, củng cố và phát triển BTNB.
- BTNB đã có mặt nhiều nơi trên thế giới từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển có nền giáo dục tiên tiến: Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Mexico, Brazil, Trung Quốc, Philipin, Iran, Việt Nam…
2. Phương pháp "Bàn tay nặn bột" tại Việt Nam:
1998-1999: 2 giáo viên đầu tiên của Việt Nam (GS Trần Thanh Vân, chủ tịch hội “Gặp gỡ Việt Nam” ở Pháp, cùng vợ là GS Lê Kim Ngọc) đã được Hội Gặp gỡ Việt Nam tạo điều kiện sang Pháp học tập và nghiên cứu về BTNB.
1999: NXB Giáo dục đã xuất bản lần đầu tiên cuốn sách "Bàn tay nặn bột" nguyên bản tiếng Pháp của G. Charpak được dịch ra tiếng Việt bởi Đinh Ngọc Lân.
2001: BTNB đã được phổ biến cho sinh viên khoa Sư phạm Tiểu học-ĐHSP Hà Nội I và được áp dụng thí điểm tại trường tiểu học Đoàn Thị Điểm (Hà Nội), và trường thực hành Nguyễn Tất Thành (thuộc ĐHSP Hà Nội I )
Từ đó đến nay, dưới sự giúp đỡ của Hội Gặp gỡ Việt Nam các lớp tập huấn hè về BTNB đã được triển khai cho các giáo viên cốt cán và các cán bộ quản lý tại nhiều địa phương trong toàn quốc. Đây là một chương trình trong quan hệ hợp tác văn hoá-giáo dục song phương Pháp-Việt.
Năm 2011 Bộ GD-ĐT có quyết định phê duyệt đề án “Triển khai phương pháp Bàn tay nặn bột ở trường phổ thông giai đoạn 2011-2015” với hai giai đoạn: từ 2011-2013 thực hiện thí điểm, từ 2014-2015 thực hiện đại trà trên toàn quốc.
3. Khái niệm:
Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm, nghiên cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Phương pháp này chú trọng tới việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một vấn đề khoa học, học sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả thiết từ hiểu biết ban đầu, tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm chứng, so sánh, phân tích, thảo luận và đưa ra kết luận phù hợp. Phương pháp này kích thích sự tò mò, ham mê khám phá của học sinh.
* Như vậy:
* Vai trò của GV –HS : Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên:
Thầy cô giáo sẽ nêu vấn đề để học sinh tự đi tìm tình huống cần giải quyết thông qua hoạt động thực hành, thí nghiệm do chính các em tự làm, hoạt động thảo luận nhóm để đưa ra những giả thiết.
Thầy cô sẽ giúp học sinh chứng minh những giả thiết của các em và cùng các em tìm ra câu trả lời đúng.
* Mục tiêu của BTNB là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
* Giảng dạy khoa học dựa trên tìm tòi khám phá.
4. Các nguyên tắc cơ bản của PPBTNB:
- Nghiên cứu các đồ vật của thế giới thực tế, gần gũi với các em, và các em cảm nhận được.
- Khoa học cũng như các hoạt động khám phá.
- Chính học sinh là người thực hiện các thí nghiệm thực hành, chứ các thí nghiệm đó không được làm sẵn cho các em.
- Giáo viên giúp học sinh xây dựng nên kiến thức của riêng các em.
- Thực hiện trong khoảng thời gian dài, liên tục.
- Học sinh có một cuốn vở thực hành của riêng mình với các từ ngữ của riêng các em
- Cần chú trọng đến:
+ Đặt câu hỏi
+ Tự chủ
+ Kinh nghiệm
+ Cùng nhau xây dựng kiến thức
- Không phải là những nội dung để học thuộc lòng .
5 . Các nguyên tắc hoạt động của PPBTNB:
- Là một tiến trình sư phạm dựa trên hoạt động tìm tòi khám phá của học sinh
- Là một sự kết hợp của cộng đồng các nhà khoa học.
- Hình thành một mạng lưới và tương tác giữa các giáo viên
- Các tài liệu được cung cấp miễn phí trên Internet và mạng lưới những chuyên gia làm việc với phương pháp BTNB
- Sự cộng tác của các trường đào tạo sư phạm và Bộ Giáo dục.
6.Tại sao giảng dạy các môn khoa học?
4.1.Để phát triển vốn kiến thức của HS:
- HS tự xây dựng kiến thức cho mình.
- Tiến trình tìm tòi nghiên cứu (Giả thuyết/Kiểm tra giả thuyết).
- Giúp học sinh có cách nhìn khoa học đối với những sự vật, hiện tượng.
4.2.Để phát triển khả năng ngôn ngữ của học sinh:
- Thông qua viết và nói: ngôn ngữ khoa học là ngôn ngữ chính xác.
- Thông qua giải thích
- Thông qua vở thí nghiệm
4.3.Để phát triển sự trao đổi giữa các học sinh với nhau:
-Trao đổi với nhau trên một chủ đề xác định.
- Làm việc cá nhân/làm việc theo nhóm.
4.4. Để học sinh thấy khoa học là quan trọng
- Chống lại những quan điểm trái khoa học.
- Giảm thiểu số lượng học sinh không muốn theo con đường khoa học.
7. Mười nguyên tắc của phương pháp “Bàn tay nặn bột”
1.Học sinh quan sát một vật hoặc một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi, có thể cảm nhận được và tiến hành thực nghiệm về chúng
2.Trong quá trình học tập, học sinh lập luận và đưa ra các lý lẽ, thảo luận về các ý kiến và các kết quả đề xuất, xây dựng các kiến thức cho mình, một hoạt động chỉ dựa trên sách vở là không đủ.
3.Các hoạt động giáo viên đề ra cho học sinh được tổ chức theo các giờ học nhằm cho các em có sự tiến bộ dần dần trong học tập. Các hoạt động này gắn với chương trình và dành phần lớn quyền tự chủ cho học sinh
4. Áp dụng phương pháp này cần 1 thời lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Tính liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo suốt trong thời gian học tập
5. Mỗi học sinh có một quyển vở thí nghiệm và học sinh trình bày trong đó theo ngôn ngữ của riêng mình
6.Mục đích hàng đầu đó là giúp học sinh tiếp cận một cách dần dần với các khái niệm thuộc lĩnh vực khoa học, kĩ thuật...kèm theo một sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết.
7.PHHS và tất cả mọi người xung quanh cần được khuyến khích hỗ trợ những điều mà học sinh, lớp học cần đê thực nghiệm
8. Ở địa phương các đối tác khoa học (Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu.) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
9. Ở địa phương, các Viện đào tạo giáo viên giúp các giáo viên kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy.
10.Giáo viên có thể tìm thấy trên Internet những mô đun (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải đáp thắc mắc.Họ cũng có thể tham gia những hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, các nhà sư phạm và các nhà khoa học.GV là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
.
8.Thực hành thiết kế một tiết dạy theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột”
8.1. Tiến trình của 1 giờ dạy theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Bước 1: Đưa ra tình huống có vấn đề và xác định vấn đề cần giải quyết.
Bước 2: Tổ chức các hoạt động để giải quyết vấn đề.
Bước 3: Củng cố, định hướng mở rộng
8.2. Tiến trình của một thực nghiệm
Gồm có 5 bước:
B1:Đưa ra tình huống có vấn đề.
B2:HS làm việc cá nhân hc theo nhóm ( đưa ra câu hỏi, dự đoán kết quả, giải thích)
B3:Tiến hành thực nghiệm.
B4: So sánh kết quả với dự đoán.
B5: Kết luận, mở rộng.
8.3.Vai trò của người giáo viên:
* GV là người hướng dẫn:
- Đề ra những tình huống, những thử thách.
- Định hướng các hoạt động.
- Thu hẹp những cái có thể.
- Chỉ ra thông tin.
* Giáo viên là người trung gian:
-Là nhà trung gian giữa "thế giới" khoa học (Các kthức & T.Hành) và HS
- Là người đàm phán với học sinh những thay đổi nhận thức liên quan với những câu hỏi được xử lí, với các thiết bị thực nghiệm thích đáng, với mô hình giải thích hợp lí.
-Đảm bảo sự đóan trước và giải quyết các xung đột nhận thức.
-Hành động bên cạnh với mỗi học sinh cũng như với mỗi nhóm học sinh và cả lớp.
8.4.Vai trò của học sinh trong giờ học với PPBTNB:
-HS quan sát một hiện tượng của thế giới thực tại và gần gũi với chúng về đề tài mà từ đó chúng sẽ hình thành các nghi vấn.
-HS tìm tòi, suy nghĩ và đề ra những bước đi cụ thể của thực nghiệm, hoặc chỉnh lí lại những ca thất bại nhờ tra cứu tư liệu.
-HS trao đổi và lập luận trong QT hoạt động, chúng chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình, cọ sát những quan điểm của nhau và hình thành những kết luận tạm thời hoặc cuối cùng bằng ghi chép, biết phát biểu.
Như vậy là học sinh đã biết nghe lời người khác, hiểu người khác, tôn trọng người khác và biết bảo vệ ý kiến của mình.
8.5.Vai trò của vở thực nghiệm:
Vở thực nghiệm không áp đặt cách ghi nhưng có mẫu sẽ thuận tiện cho các em trong việc ghi chép và đỡ mất thời gian của tiết hoc
Có nhiều cách để ghi: có thể các em sẽ ghi bằng văn bản, bằng hình vẽ hoặc bằng sơ đồ.
8.6.Những điều lưu ý khi sử dụng PP BTNB:
-Thực hiện phương pháp này không thể nóng vội, cần thực hiện từng bước để tạo thói quen cho học sinh lúc đó việc dạy học với PP BTNB sẽ dễ dàng và đem lại hiệu quả cao.
- Tất cả các câu hỏi của học sinh đưa ra ta không bỏ vào sọt rác mà sẽ trả lời qua bài học ( câu hỏi nào chưa có trong nội dung bài ta cần khéo léo dẫn dắt, khi nào có kiến thức ở các bài khác liên quan ta sẽ trả lời cho các em).
- Trước giờ ta vẫn làm củng cố bài là phải nhắc lại nội dung kiến thức để các em nhớ được thì nay với PPBTNB sẽ là những thử thách mới để các em tìm tòi khám phá ở nhà và đây cũng là bước chuẩn bị cho bài sau.
9. Hiệu quả của phương pháp đối với GV và HS
9.1. Giáo viên:
- Không phải tốn thời gian cho việc thuyết trình giảng giải.
- Kiến thức được HS tiếp nhận một cách tự nhiên, thoải mái, không gò ép.
- Rèn được kĩ năng xử lí tình huống.
9.2. Học sinh:
- Có được kĩ năng phán đoán, lập luận , bảo vệ ý kiến cá nhân.
- Mạnh dạn tự tin trước đám đông.
- Phát huy khả năng tìm tòi, lòng say mê khoa học.
- Tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực nghiệm sẽ nhớ lâu.
- Rèn luyện kĩ năng diễn đạt.
10. Những vấn đề cần quan tâm khi vận dụng phương pháp vào thực tiến :
10.1. Năng lực của GV :
a) Khó khăn:
- Trình độ GV chưa đồng đều.
- Năng lực ở một số GV còn hạn chế.
b) Biện pháp:
- Nâng cao công tác tự học để có kiến thức sâu rộng, tìm hiểu kĩ các phương pháp dạy học.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng tốt phương pháp dạy học mới và vận dụng phù hợp.
10.2. Phương tiện dạy học
a) Khó khăn:
- Trang thiết bị chưa đầy đủ phục vụ cho việc thí nghiệm hoặc TBDH chưa đảm bảo tính khoa học, chính xác.
- Rất khó tổ chức cho các em đi thăm điểm hoặc điều tra.
b) Biện pháp:
- GV tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền có sẵn ở địa phương để phục vụ cho việc giảng dạy.
- Tổ chức những buổi cho HS đi điều tra, thăm diểm có thể kết hợp với các lực lượng GD khác trong và ngoài nhà trường.
10.3. Thời lượng tiết học
a) Khó khăn:
35 - 40 phút / tiết rất khó áp dụng cho phương pháp BTNB
Lí do: HS ghi vở thực nghiệm tốn thời gian.
Tốn nhiều thời gian cho việc trình bày ý tưởng cá nhân.
Làm thí nghiệm có thể thất bại nhiều lần.
b) Biện pháp:
- Cần giải quyết ít vấn đề trong một lần thí nghiệm.
-Sử dụng phương pháp này thường xuyên để rèn thói quen cho HS.
- Rèn cho HS có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc để đảm bảo thời gian.
- Trong quá trình thực nghiệm GV cần có mặt kịp thời nhằm giúp nhóm trình bày ý tưởng, có thể điều chỉnh kịp thời để tránh thất bại nhiều lần.
- Những vấn đề chưa cần thiết giải quyết trong tiết học GV hẹn dịp khác.
- Đề xuất ý kiến lên các cấp quản lí GD.
10.4. Sĩ số lớp học:
a) Khó khăn :
- Sĩ số đông ảnh hưởng đến việc tổ chức các hình thức dạy học.
b) Biện pháp :
- Sắp xếp bàn ghế phù hợp.
- Bố trí nhóm từ 4 - 6 người.
- Có chỗ dành riêng để vật liệu thí nghiệm.